Trong quá trình viết luận, một phần không thể thiếu là lời mở đầu luận văn thạc sĩ luật. Lời mở đầu không chỉ giúp người đọc hiểu rõ vấn đề cần nghiên cứu mà còn giới thiệu về mục tiêu, phạm vi và cấu trúc của luận văn.
Bài viết này, Luận Văn Online sẽ cung cấp một mẫu lời mở đầu luận văn thạc sĩ luật để giúp bạn có được một khởi đầu tốt đẹp cho công trình nghiên cứu của mình.
Xem thêm nội dung tương tự: Gợi ý 100 đề tài luận văn thạc sĩ luật từ những bài chất lượng, điểm cao
1. Mẫu lời mở đầu luận văn thạc sĩ luật kinh tế hợp đồng tư vấn xây dựng
Hoạt động tư vấn xây dựng là một loại hình tư vấn đa dạng trong công nghiệp xây dựng, kiến trúc, quy hoạch đô thị và nông thôn… có quan hệ chặt chẽ với tư vấn đầu tư, thực hiện phần việc tư vấn tiếp nối sau việc của tư vấn đầu tư. Tư vấn xây dựng giúp cho khách hàng – chủ đầu tư xây dựng tổ chức khảo sát, thiết kế xây dựng và tổ chức đấu thầu xây lắp công trình, giám sát thi công và nghiệm thu công trình. Những năm gần đây, tình hình xây dựng nhà cửa, các công trình lớn ở Việt Nam ngày càng phát triển, phát sinh giữa các chủ thể khác nhau, hình thức đa dạng, trong khi đó pháp luật điều chỉnh vấn đề này bao gồm những quy phạm để xác định pháp luật điều chỉnh, quyền và nghĩa vụ các bên còn nhiều vướng mắc. Đặc biệt, khi có tranh chấp xảy ra, thì việc áp dụng pháp luật để giải quyết còn nhiều bất cập do pháp luật quy định chưa rõ ràng hoặc có quy định nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể. Do vậy, nghiên cứu về hợp đồng tư vấn xây dựng sẽ giúp các chủ thể ký kết và thực hiện hợp đồng được thuận lợi, an toàn và hiệu quả, tránh các tranh chấp, rủi ro đáng tiếc.
Là nhân viên đang làm việc tại Công ty TNHH Một thành viên Tư vấn thiết kế và đầu tư xây dựng Bộ Quốc phòng (gọi tắt là Công ty Tư vấn thiết kế và đầu tư xây dựng – Bộ Quốc phòng), cùng với những kiến thức đã được học và kinh nghiệm qua công tác thực tế, tác giả lựa chọn đề tài: “Hợp đồng tư vấn xây dựng theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Công ty Tư vấn thiết kế và đầu tư xây dựng Bộ Quốc phòng” để làm Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật kinh tế. Qua việc triển khai nghiên cứu để làm sáng tỏ hơn nữa một số vấn đề lý luận và thực tiễn việc áp dụng các quy định pháp luật về hợp đồng tư vấn xây dựng ở Việt Nam nói chung và Công ty Tư vấn thiết kế và đầu tư xây dựng – Bộ Quốc phòng nói riêng để từ đó đưa ra những kiến nghị trong việc nâng cao hiệu quả hơn nữa trong các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng những quy định này.
2. Mẫu lời mở đầu luận văn thạc sĩ luật kinh tế pháp luật Việt Nam về hợp đồng đại lý

Mặc dù hoạt động đại lý thương mại đang rất phát triển nhưng pháp luật về đại lý mới chỉ được quy định chủ yếu tại Luật thương mại 2005; một số văn bản pháp luật chuyên ngành khác như: Bộ luật Hàng hải, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật du lịch, Luật hải quan, Luật quản lý thuế 2và các văn bản dưới luật như: Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ngày 03 tháng 09 năm 2014 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu; Nghị định số 19/2016/NĐ-CP ngày 22 tháng 03 năm 2016 của Chính phủ về kinh doanh khí. Tuy nhiên, chưa có quy định của Nhà nước về hệ thống đại lý và pháp luật điều chỉnh về hợp đồng đại lý còn nhiều bất cập. Các văn bản pháp luật còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo và chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Một số quy định còn thiếu tính cụ thể, chưa bám sát với thực tiễn thi hành hoặc chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Do vậy khi các bên đi vào kí kết, thực hiện hợp đồng đại lý đã phát sinh nhiều vướng mắc, bất cập, sai sót, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Như vậy, sau một thời gian áp dụng, cùng với việc một số văn bản quy phạm pháp luật khác được ban hành, pháp luật Việt Nam về hợp đồng đại lý đã bộc lộ một số điểm hạn chế, cần được sửa đổi, bổ sung. Trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế và trước thực trạng pháp luật cho thấy việc tham gia đại lý thương mại thông qua hợp đồng đại lý ở Việt Nam cần được bổ sung, hoàn thiện. Đó là lý do em lựa chọn đề tài “Pháp luật Việt Nam về hợp đồng đại lý” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
3. Mẫu lời mở đầu luận văn thạc sĩ luật kinh tế đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Quan hệ lao động thông thường là mối quan hệ lâu dài nhưng không có nghĩa là mãi mãi và các bên đều có thể chấm dứt hợp đồng lao động với nhiều lý do chủ quan và khách quan khác nhau khi một trong hai bên không muốn tham gia vào quan hệ lao động. Pháp luật Việt Nam đã đưa ra những yêu cầu các bên phải thực hiện giao kết hợp đồng khi tham gia quan hệ lao động đồng thời cũng cho phép các bên được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhằm phù hợp với nhu cầu, điều kiện mới của mỗi bên. Nhờ đó có thể hạn chế tới mức tối đa những thiệt hại cũng như tranh chấp, khiếu nại, khởi kiện giữa các bên.
Tuy nhiên trong quá trình thực tiễn áp dụng, đơn phương chấm dứt hợp đồng đặc biệt là đơn phương chấm dứt hợp đồng của người sử dụng lao động vẫn còn nhiều vướng mắc và bất cập. Nguyên nhân là do sự hiểu biết của các chủ thể liên quan về vấn đề đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động còn rất hạn chế, bản thân những quy định của pháp luật cũng còn nhiều vấn đề chưa minh bạch, rõ ràng, hợp lý thiếu hiệu quả thực tế. Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của các chủ thể trong quan hệ lao động là quyền được pháp luật nước ta ghi nhận trong Sắc lệnh 29/SL năm 1947 và được đưa vào Bộ luật lao động năm 2002, 2006, 2007, các văn bản liên quan và mới đây nhất là Bộ luật lao động số 10/2012/QH13 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 18/06/2012. Bộ luật lao động 2012 đã góp phần hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh các vấn đề quan hệ lao động, dần đáp ứng một phần về yêu cầu phát triển thị trường lao động trong nước và quốc tế trong quá trình hội nhập và phát triển. Mặc dù Bộ luật có nhiều điểm mới, tiến bộ và khắc phục được những bất cập nhưng cũng chưa thể giải quyết được một cách triệt để vấn đề liên quan đến đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Từ những yêu cầu thực tiễn áp dụng, việc đơn phương chấm dứt hợp đồng có thể tác động xấu tới quyền và lợi ích hợp pháp, đến việc làm, thu nhập của người lao động, đến thị trường lao động và đến nền kinh tế – xã hội nói chung của người lao động, thị trường lao động của Thành phố Hà Nội nói riêng. Từ những lý do trên tác giả quyết định chọn đề tài “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hà Nội” để làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học.
4. Mẫu lời mở đầu luận văn thạc sĩ luật kinh tế các hình thức đầu tư

Với chính sách phát triển kinh tế phù hợp với xu thế của thời đại hội nhập, mở cửa, Luật Đầu tư năm 2014 được ban hành, quy định đa dạng và đổi mới các hình thức đầu tư nhằm thu hút, khuyến khích các nguồn vốn từ các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, nhằm thu hút nguồn lực cho đất nước phát triển, xóa bỏ sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, về cơ bản được thực hiện chung thông qua các hình thức mà Luật Đầu tư năm 2014 quy định. Trước những đòi hỏi khách quan của xu thế thời đại, cũng như đáp ứng nhu cầu thu hút đầu tư và phát triển kinh tế đất nước theo nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, theo nguyên tắc tự do và bình đẳng. Luật Đầu tư năm 2014 đã được hoàn thiện theo hướng đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ giữa các bộ phận pháp luật điều chỉnh về những hành vi có nội dung tương tự cũng như sự tương thích với các Điều ước quốc tế về đầu tư và Việt Nam tham gia.
So với các quốc gia trong khu vực, các hình thức đầu tư theo pháp luật về đầu tư của Việt Nam tương đối phong phú, tạo nhiều sự lựa chọn phù hợp với quy mô nguồn vốn, khả năng quản lý và tính chịu trách nhiệm về hoạt động đầu tư nhằm kinh doanh của các nhà đầu tư.
Trong những năm gần đây, với chính sách mở cửa hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta trong việc thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài nhằm tìm kiếm nguồn lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Việt Nam đã tham gia rất nhiều tác tổ chức thương mại thế giới, các tổ chức kinh tế trong và ngoài khu vực như: WTO, AFTA, CPTPP, APEC, ASEAN….Điều này cũng khiến chúng ta phải có những điều chỉnh hợp lý để phù hợp thực tiễn.
Vì những lý do trên, học viên lựa chọn vấn đề “Các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
5. Mẫu lời mở đầu luận văn thạc sĩ luật – xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn
Ly hôn là một vấn đề xã hội được quan tâm ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, bởi lẽ hậu quả của ly hôn không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của các bên nam nữ mà còn ảnh hưởng đến các thành viên trong gia đình và xã hội. Trong bất kỳ xã hội nào, ly hôn cũng được quan tâm ở những mức độ khác nhau, bởi vì quan hệ hôn nhân và gia đình là quan hệ chủ đạo trong xã hội, mà ly hôn là điều khó tránh khỏi khi quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Pháp luật các quốc gia đều quy định chấm dứt hôn nhân bằng ly hôn do Toà án tiến hành theo những thủ tục tố tụng chặt chẽ.
Trong những năm qua Quốc hội đã thông qua nhiều bộ luật và luật, đây là một bước phát triển mới đánh dấu sự pháp điển hoá các văn bản đơn hành và trên cơ sở đúc rút những kinh nghiệm trong thực tiễn xét xử. Các văn bản luật đã quy định khá chi tiết, cụ thể và thống nhất về nội dung cũng như thủ tục tố tụng để xét xử các vụ án ly hôn. Trên cơ sở đó, hoạt động xét xử các vụ án ly hôn ở Việt Nam nói chung và ở Thừa Thiên Huế nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu. Những kết quả trong hoạt động xét xử ly hôn của Tòa án nhân dân đã góp phần bảo đảm quyền tự do, dân chủ, quyền sở hữu về tài sản, quyền nuôi con, giữ vững trật tự, an toàn xã hội. Việc áp dụng các quy định của pháp luật để xét xử các vụ án ly hôn trong thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định, song cũng phải thừa nhận rằng nhiều quy định của pháp luật tuy mới được ban hành nhưng cũng đã bộc lộ nhiều bất cập. Do nhiều nguyên nhân khác nhau nên đã dẫn đến thực trạng xét xử các vụ án nói chung, các vụ án ly hôn nói riêng những năm qua chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình cải cách tư pháp. Qua thực tiễn xét xử ở Thừa Thiên Huế cho thấy chất lượng giải quyết chưa cao, các sai sót còn nhiều đã dẫn đến các bản án, quyết định của Toà án phải bị hủy hoặc bị sửa, trong đó xác định căn cứ ly hôn chưa chính xác, bỏ sót người tham gia tố tụng, các phán quyết không đúng với hồ sơ vụ án đã phản ảnh, xác định tài sản chung và chia tài sản chung khi ly hôn chưa đúng pháp luật,…Việc giải quyết còn kéo dài, đội ngũ Thẩm phán còn hạn chế về chuyên môn và thiếu kinh nghiệm xét xử đã làm giảm lòng tin của các đương sự, cũng như các chủ thể khác vào các phán quyết của Toà án. Chính từ những nguyên nhân và thực trạng nêu trên, trong những năm qua TANDTC đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn hoặc tổng kết kinh nghiệm về công tác xét xử nhằm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử các vụ án ly hôn. Tuy nhiên, những việc làm trên chưa mang lại hiệu quả cao do thiếu tính toàn diện và không triệt để. Việc nghiên cứu tìm những giải pháp để áp dụng thống nhất các bộ luật và tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan để nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn là rất cần thiết.
Do đó chúng tôi đã chọn đề tài: “Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế” với mong muốn tìm ra được những tiêu chí có cơ sở khoa học riêng là rất có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
6. Mẫu lời mở đầu luận văn thạc sĩ luật học hoà giải ở cơ sở

Trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc phát huy tác dụng của hoạt động hoà giải ở cơ sở càng trở lên có ý nghĩa đối với đất nước nói chung với tỉnh Hải Dương nói riêng. Mặc dù đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về hoạt động hoà giải cơ sở, nhưng thực tiễn công tác hoà giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương chưa phát huy được vai trò, ý nghĩa vốn có của nó, thậm chí còn có nhiều đơn vị không chú trọng đến hoạt động này. Thực tiễn Hải Dương cho thấy ở những đơn vị làm tốt công tác hòa giải ở cơ sở thì tình hình an ninh, trật tự được giữ vững, tạo đà cho phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống người dân. Ngược lại, ở những nơi còn coi nhẹ công tác hòa giải, tình hình mâu thuẫn, tranh chấp có chiều hướng tăng, dẫn đến mất trật tự, trị an xã hội. Thông thường, những mâu thuẫn, va chạm trong cuộc sống, lúc đầu đơn giản, nhưng do không được quan tâm giải quyết kịp thời cho nên đã nhanh chóng trở thành phức tạp, thậm chí là nguyên nhân xuất hiện những điểm nóng về khiếu kiện.
Do đó, việc nghiên cứu tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác hoà giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương là yêu cầu cấp thiết. Được sự gợi ý của Khoa Luật và Bộ môn lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
7. Mẫu lời mở đầu luận văn thạc sĩ luật học bảo đảm quyền khởi kiện vụ án dân sự
Trong bối cảnh kinh tế xã hội hiện nay, bảo đảm quyền con người, quyền công dân đang là một nhiệm vụ chính trị quan trọng đặt ra cho Đảng, Nhà nước và được ghi nhận trong Hiến pháp 2013. Quyền khởi kiện vụ án dân sự (VADS) là một quyền con người cơ bản đã được ghi nhận tại các văn bản pháp luật TTDS qua các thời kỳ. Đối với các văn bản pháp luật trước khi BLTTDS 2004 có hiệu lực thì quy định về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện còn tản mạn, chưa rõ ràng cụ thể. Đến BLTTDS 2004 có hiệu lực thì về cơ bản các quy định về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện đã được ban hành một cách thống nhất đồng thời đã chỉ rõ ra được chủ thể, phạm vi và các cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện. Để phù hợp với thực tế xét xử và khắc phục những hạn chế của BLTTDS 2004 thì đến năm 2011 BLTTDS 2004 được sửa đổi, bổ sung. Mặc dù đã có nhiều quy định được sửa đổi, bổ sung nhưng trong quá trình áp dụng BLTTDS sửa đổi 2011 vẫn bộc lộ nhiều hạn chế bất cập ảnh hưởng đến quyền khởi kiện của đương sự. Trước tình hình đó, BLTTDS 2015 ban hành đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng để khắc phục kịp thời những quy định về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện VADS. Việc nghiên cứu toàn diện, đầy đủ các khía cạnh của quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện, nhất là những điểm mới theo BLTTDS 2015 là một yêu cầu cấp thiết nhằm đánh giá mặt tích cực và hạn chế của quy định pháp luật cũng như thực tiễn thi hành. Trên cơ sở đó, có thể đề xuất các giải pháp hoàn thiện và thực thi các quy định về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong BLTTDS 2015 có hiệu quả trên thực tế.
Với những lý do trên, việc lựa chọn đề tài: “Quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện vụ án dân sự theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015” để nghiên cứu trong khuôn khổ luận văn cao học luật chuyên ngành Luật dân sự và tố tụng dân sự là cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
8. Mẫu lời mở đầu luận văn thạc sĩ luật học tranh tụng trong tố tụng dân sự

Để thực hiện chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta, lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 quy định nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Đây là nguyên tắc đặc biệt quan trọng để công lý và công bằng của quốc gia được thực hiện đồng thời tạo bước đột phá cho việc lựa chọn và đổi mới mô hình tố tụng tư pháp ở Việt Nam [ 51, tr. 471, 490]. Vì vậy, BLTTDS 2015 với tư cách là ngành luật hình thức có nhiệm vụ thể chế hóa quy định Hiến pháp năm 2013 đã quy định bảo đảm tranh tụng trong xét xử là một nguyên tắc của tố tụng dân sự (TTDS). Tuy nhiên, để nguyên tắc này thực hiện được trên thực tế thì cần phải làm rõ những vấn đề như khái niệm, bản chất, phạm vi, nội dung tranh tụng trong TTDS. Những vấn đề này được thể hiện trong pháp luật TTDS như thế nào?
Các quy định về tranh tụng trong BLTTDS 2015 đã đầy đủ, hợp lý chưa, đã rõ ràng, cụ thể chưa? Ngoài ra, khi đổi mới mô hình tố tụng như vậy thì cần phải có những biện pháp nào để đảm bảo quyền tranh tụng của các đương sự. Như vậy, một vấn đề cấp thiết được đặt ra cần phải nghiên cứu tranh tụng trong TTDS dưới góc độ lý luận và thực tiễn nhằm thực hiện thành công chiến lược cải cách tư pháp cũng như đảm bảo các đương sự thực hiện quyền tranh tụng và các thẩm phán áp dụng các quy định về tranh tụng trong TTDS một cách thống nhất.
Với các lý do nêu trên đây, tác giả đã chọn đề tài “Tranh tụng trong TTDS Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” để làm luận văn thạc sỹ luật học.
9. Mẫu lời mở đầu luận văn thạc sĩ luật học tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự VN
Theo số liệu thống kê của TAND thành phố Đà Nẵng trong thời gian gần đây (tính từ năm 2011 đến năm 2015) TAND cấp quận, huyện của thành phố Đà Nẵng đã xét xử sơ thẩm 2.759 vụ án hình sự với 4.793 bị cáo, trong đó số vụ án về các tội liên quan đến cờ bạc là 125 vụ, với 514 bị cáo, số tiền dùng để đánh bạc lên đến hàng trăm tỷ đồng. Riêng đối với tội tổ chức đánh bạc, các cơ quan chức năng đã đưa ra xét xử 42 / 2.759 vụ chiếm 1,52%, với 129 / 4.793 bị cáo chiếm 4,77% trong tổng số các vụ án, bị cáo đưa ra xét xử trong thời gian 05 năm qua.
Nguyên nhân của tình hình trên, một phần là do các yếu tố khách quan, như tác động của những vấn đề xã hội phức tạp nảy sinh trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế; sự xuống cấp về đạo đức xã hội, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, làm ăn chụp giật,… nhưng chủ yếu vẫn là do những hạn chế, yếu kém trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là phòng ngừa xã hội. Cấp ủy đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức ở một số ngành, địa phương chưa thực sự quan tâm chỉ đạo toàn diện công tác phòng, chống tội phạm, vì vậy, nhiệm vụ phòng, chống tội phạm chưa được đưa vào chương trình, kế hoạch phát triển theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước. Nhiều cấp, nhiều ngành còn đứng ngoài cuộc hoặc chỉ tham gia một cách hình thức, chiếu lệ, đối phó. Tổ chức bộ máy, phân công, phân cấp ở các cơ quan bảo vệ pháp luật và chuyên trách còn bất cập, dẫn đến chồng chéo, trùng lặp. Năng lực tham mưu, quản lý và tổ chức thực hiện cũng như tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, kiên quyết tấn công tội phạm của một bộ phận cán bộ cơ quan bảo vệ pháp luật, chiến sĩ lực lượng chuyên trách còn hạn chế, yếu kém, sa sút. Điều kiện hậu cần – kỹ thuật bảo đảm cho công tác phòng, chống tội phạm còn nhiều khó khăn, hạn chế. Chính sách đãi ngộ đối với lực lượng trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm còn chưa phù hợp [39]
Trước những thực trạng đó, việc nghiên cứu các quy định của PLHS hiện hành về tội tổ chức đánh bạc dưới góc độ thực tiễn tại một địa phương nhất định, không những có ý nghĩa sâu sắc về mặt lý luận mà còn cả về mặt thực tiễn áp dụng pháp luật, để từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật đối với loại tội phạm này. Nhận thức được điều đó, tôi chọn đề tài: “Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng)” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
10. Mẫu lời mở đầu luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự

Nguyên nhân chủ yếu do những quy định của pháp luật TTHS còn sơ hở, thiếu chặt chẽ, chồng chéo dẫn đến khó khăn trong việc thống nhất áp dụng pháp luật; trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ trong các cơ quan tiến hành tố tụng còn bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn cũng đã đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học Luật TTHS (Tố tụng hình sự) phải tiếp tục nghiên cứu, giải quyết đề làm sáng tỏ về mặt lý luận như: Khái niệm biện pháp ngăn chặn, khái niệm BPTG (biện pháp tạm giam), các điều kiện, chủ thể áp dụng BPTG trong TTHS nhiều lúc còn chưa được áp dụng một cách thống nhất, còn nhiều vướng mắc, bất cập… Trong khi đó xung quanh những vấn đề lý luận này, cũng còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “BPTG trong luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Kạn” là vấn đề mang tính cấp bách, thiết thực không những về mặt lý luận mà cả về mặt thực tiễn đối với địa phương trong giai đoạn hiện nay.
—-
Xem thêm các bài viết khác cùng chủ đề:
- Mẫu tóm tắt đề cương luận văn thạc sĩ
- Cách viết bài luận văn tiếng anh đạt điểm cao kèm mẫu chi tiết
- Nhận viết thuê luận văn uy tín hơn 10 năm kinh nghiệm
Luận Văn Online hy vọng rằng bài viết này đã giúp bạn giải đáp một phần những băn khoăn về việc tìm một dịch vụ uy tín để viết thuê luận văn.
Nếu bạn cần tư vấn hoặc giải đáp thắc mắc về dịch vụ viết thuê luận văn.
Hãy liên hệ trực tiếp với nhân viên tư vấn qua hotline: 0972.003.239 – email: edu.luanvanonline@gmail.com. Hoặc để lại thông tin liên lạc của bạn qua trang web: https://luanvanonline.com/.