10 bài kết luận của bài tiểu luận triết học

Lời kết luận của bài tiểu luận triết học

Kết luận của bài tiểu luận triết học không chỉ là việc tổng hợp thông tin, mà còn là để nhìn nhận và đánh giá mọi khía cạnh của vấn đề triết lý.

Câu hỏi mà chúng ta thường đặt ra là “Kết luận này mang lại gì mới mẻ?” hay “Làm thế nào nó thay đổi cách chúng ta nhìn nhận thế giới xung quanh?” là những điểm khởi đầu cho sự hiểu biết sau cùng về giá trị của hành trình nghiên cứu.

Hãy cùng Luận Văn Online tìm hiểu 10 mẫu lời mở đầu tiểu luận triết học bên dưới để giúp bài tiểu luận của bạn thêm phần trang trọng và nghiêm túc trong cách diễn đạt. Để bảo đảm rằng ý nghĩa của từng từ và câu được truyền đạt chính xác và chặt chẽ.

Xem thêm nội dung có thể bạn sẽ cần: Bài tiểu luận triết học là gi? Cách làm tiểu luận triết học điểm cao

1. 10 Mẫu lời kết luận của bài tiểu luận triết học

1.1. Lời kết luận của bài tiểu luận triết học về chủ nghĩa duy vật biện chứng

Để làm rõ những vấn đề cần nghiên cứu đó thì đề tài: “Chủ nghĩa duy vật biện chứng và vai trò của nó đối với con người” đã được chọn để làm tiểu luận này.

Như vậy, chúng ta đã nghiên cứu các nguyên lý các quy luật và phạm trù của phép biện chứng duy vật, đó là những nội dung cơ bản nhất của phép biện chứng. Các nguyên lý là những nguyên tắc tổng quát của thế giới khách quan, và nó cũng là nguyên tắc tổng quát nhất của phép biện chứng duy vật. Mỗi quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật đề cập đến những phương diện khác nhau của quá trình vận động và phát triển của sự vật. Trong thực tế, sự vận động và phát triển của bất cứ sự vật nào cũng là sự tác động tổng hợp của tất cả những quy luật cơ bản do phép biện chứng duy vật trừu tượng hoá và khái quát hoá. Do đó, trong hoạt động của mình, cả hoạt động nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn để đạt chất lượng và hiệu quả cao hơn con người cần vận dụng tổng hợp tất cả những quy luật đó một cách đầy đủ, sâu sắc năng động sáng tạo phù hợp điều kiện cụ thể.

1.2. Lời kết luận của bài tiểu luận triết học Mác – Lênin

Đề tài tiểu luận triết học là:Vấn đề con người trong triết học Mác – Lênin và phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nước ta hiện nay”. Với những hiểu biết cá nhân, nhóm tôi hy vọng sẽ có những đóng góp nhỏ cho lý luận về vấn đề này. Ngày nay đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, Đảng, Nhà nước ta xác định, muốn thực hiện thành công cách mạng XHCN thì trước hết phải có những xã hội chủ nghĩa. Muốn xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa trước bối cảnh đầy biến động của nền kinh tế thị trường thì chúng ta phải luôn quán triệt tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận cho hành động, có như vậy chúng ta mới có thể có được định hướng đúng đắn có thể xây dựng được con người vừa “hồng” vừa “chuyên” như mong mỏi của Bác Hồ.
Lời kết luận của bài tiểu luận triết học
Lời kết luận của bài tiểu luận triết học
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, trên cơ sở tiếp thu có sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, Nhà nước ta đã đưa ra các chính sách xã hội nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn cho đời sống sinh hoạt của nhân dân; tạo điều kiện tốt nhất để chăm sóc cho nhân dân cả về vật chất lẫn tinh thần. Chúng ta luôn coi trọng và đào tạo mọi điều kiện để con người có thể phát triển toàn diện. Nó được cụ thể hoá bằng chính sách coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu” của Đảng, Nhà nước ta. Như vậy, đối với nước ta hiện nay, để thực hiện thành công đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá “rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự vừa có những bước nhảy vọt” đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực phát huy những lợi thế vốn có của đất nước, tận dụng tối đa mọi cơ hội, khả năng có thểđể nhanh chóng đạt trình độ công nghệ tiên tiến; tranh thủứng dụng ngày càng nhiều hơn ở mức độ cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, “từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Cùng với đó, chúng ta phải ra sức phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam, lấy phát triển giáo dục, khoa học và công nghệ làm nền táng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong đó, con người là trung tâm của mọi sự phát triển. Trên đây, em đã nêu ra một số quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.

1.3. Lời kết luận của bài tiểu luận triết học về lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam

 Xuất phát từ những lý do trên,  tôi quyết định chọn đề tài “Tư tưởng triết học Việt Nam – Những nội dung cơ bản và nét đặc trưng của nó” làm đề tài tiểu luận của mình.

Tóm lại, việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam được nhiều học giả quan tâm. Vì vậy, ở nước ta, xung quanh lĩnh vực này đã có không ít các cuộc hội thảo, các công trình ở mức độ khác nhau đề cập đến, đặc biệt là vấn đề lý luận và phương pháp luận mà cho đến nay, vẫn còn là những vấn đề tranh luận.

Về mặt lý luận, đó là việc có hay không có tư tưởng triết học Việt Nam? Nếu có thì ở mức độ nào, và các tư tưởng đó có được trình bày như một học thuyết, một hệ thống triết học hay không? Hầu hết các ý kiến đều thống nhất rằng, nước ta không có các học thuyết triết học được trình bày một cách có hệ thống, nhưng tư

tưởng triết học thì chắc chắn là có. Việc khẳng định có tư tưởng triết học trong lịch sử tư tưởng nước ta, trước hết, dựa trên quan niệm duy vật về cho lịch sử cho rằng ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, sự phản ánh đó, trong những hoàn cảnh đặc biệt, đã trở thành những phản tư triết học trước tồn tại xã hội với nhiều sự kiện quan trọng.

Vấn đề phương pháp luận chỉ được đề cập tới sau việc khẳng định nói trên; tức là, khi các nhà nghiên cứu khẳng định có tư tưởng triết học thì đương nhiên, khẳng định cả hình thức, đối tượng của các tư tưởng đó. Phương pháp luận của việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam cần cụ thể hoá, chính xác hoá đối tượng nghiên cứu và cách tiếp cận đối tượng đó.

Các vấn đề nguồn gốc, đối tượng và đặc điểm của tư tưởng triết học Việt Nam nêu trên chỉ là những nghiên cứu ban đầu đòi hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và làm rõ.

1.4. Lời kết luận của bài tiểu luận triết học về ô nhiễm môi trường

Lời kết luận của bài tiểu luận triết học
Lời kết luận của bài tiểu luận triết học

“Trái đất là một tổng thể bao gốm các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau”. Cùng với các vấn đề toàn cầu khác, ô nhiễm môi trường đang ngày một đe doạ nghiêm trọng không chỉ đến cuộc sống con người mà còn đến các mối quan hệ đang tồn tại xung quanh nó. Loài người đang phải hứng chịu “phản đòn” của thiên nhiên, và chính điều đó đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực. Chính trị quốc tế không phải là một thước đo cho những ảnh hưởng tiêu cực của ô nhiễm môi trường nhưng chính nó đang phải đếm từng ngày tồn tại cùng những xung đột, những mâu thuẫn phát sinh từ vấn nạn đó. Một trong những yếu tố gây ra và làm cho vấn đề ô nhiễm môi trường chính là hành động của con người. Chính chúng ta đang huỷ diệt dần thiên nhiên và phải trả những cái giá quá đắt cho những hành động đó.

Liệu những nguồn tài nguyên mà chúng ta đang phải vay mượn từ các thế hệ sau có đủ làm thoả mãn những nhu cầu mà chính bản thân chúng ta cũng tự thấy chưa bao giờ là đủ? Liệu mối quan hệ giữa các quốc gia và hợp tác quốc tế hiện nay có thực sự sẽ căng thẳng như những gì mà chúng ta đang nhìn nhận? Nhìn thẳng vào thực trạng, xâu chuỗi lại các nguyên nhân, và đặc biệt là đối diện với chính những ảnh hưởng của nó để tìm ra những giải pháp phù hợp chính là tiêu chí mà chúng tôi đặt ra trong quá trình thực hiện bài tiểu luận này. Không phải là một bài tiểu luận phê phán, những gì được trình bày trên đây đơn giản chỉ là những nghiên cứu về một vấn đề toàn cầu đang đe doạ đến cuộc sống con người và đưa ra một số gợi ý nhất định cho việc ngăn chặn sự gia tăng của vấn nạn ô nhiễm môi trường, vì sự “phát triển bền vững” chung của toàn nhân loại.

1.5. Lời kết luận của bài tiểu luận triết học Nho giáo

Đề tài: “Tư tưởng triết học của Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hoá tinh thần của người Việt”, được thực hiện nhằm hiểu rõ hơn những ảnh hưởng sâu sắc của nó đến xã hội Việt Nam xưa và nay. Trong lịch sử Việt Nam, Nho giáo cùng các tư tưởng khác như Phật giáo, Đạo giáo, Đạo Thiên Chúa… đã có ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống văn hoá tinh thần người Việt. Đến nay, Nho giáo đã có mặt ở Việt Nam khoảng 2000 năm và cũng trải qua nhiều thăng trầm. Người Việt Nam, xã hội Việt Nam tiếp nhận Nho giáo từ thế bị động sang thế chủ động, từ thái độ tiêu cực sang thái độ tích cực.
Do nhu cầu xây dựng và củng cố nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, giai cấp phong kiến Việt Nam đã tìm thấy ở Nho giáo những điểm tương đồng về mục đích, về văn hóa và cả về tư tưởng, vì vậy Nho giáo lúc đầu là hệ tưởng của kẻ đi xâm lược sau lại trở thành công cụ để chống lại kẻ đi xâm lược và trở thành vũ khí tinh thần đắc lực cho giai cấp phong kiến Việt Nam trên con đường củng cố địa vị của mình. Trong một thời gian dài, Nho giáo là hệ tư tưởng chính thống của nhà nước phong kiến, mọi chính sách đối nội, đối ngoại đều lấy Nho giáo làm ngọn đuốc soi đường. Tư tưởng của Nho giáo đã ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hoá tinh thần người Việt trên tất cả các lĩnh vực. Tin rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đoàn kết và đồng lòng của toàn dân, trên cơ sở giữ gìn truyền thống, văn hoá dân tộc nói chung và truyền thống tư tưởng Nho giáo nói riêng, đất nước ta ngày càng giàu mạnh, để tạo cơ sở vững chắc đi lên con đường xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã chọn.

1.6. Lời kết luận của bài tiểu luận triết học phương Đông

Đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Nho gia và Triết học Đạo gia ở Trung Quốc thời Cổ Đại”.

Lời kết luận của bài tiểu luận triết học
Lời kết luận của bài tiểu luận triết học

Theo đà phát triển tư tưởng của nhân loại, ngày nay một số tư tưởng Nho gia – Đạo gia đã không còn phù hợp với đời sống xã hội nước ta, thậm chí một số quan điểm Nho giáo còn mang tính lạc hậu, cổ hủ, kìm hãm sự phát triển văn hoá ở một số vùng nông thôn. Chúng ta cần phải biết chắc lọc, tiếp thu và phát triển những tư tưởng của
Nho giáo để giải quyết những vấn đề về gia đình, về mối quan hệ cá nhân và xã hội, về quản lý đất nước, về phát triển kinh tế, giáo dục… trong thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Mặc dù hai tư tưởng này không còn tồn tại chính thức ở Việt Nam nhưng ảnh hưởng của chúng vẫ n còn sâu nặng trong tư tưởng của dân tộc ta , nếu như tư tưởng Nho gia đem lại cho Việt Nam các truyền thống quý báu như: tinh thần yêu nước, hiếu học, truyền thống tôn sư trọng đạo … thì Đạo gia đem lại cho chúng ta rất nhiều bài học có giá trị cả trong nhận thức lẫn trong thực tiễn trước bối cảnh toàn cầu hóa và các mạng khoa học công nghệ đương đại. Trong đó có các quan điểm về phát triển bền vững, phát triển hài hòa, bảo vệ môi trường…

Ngày nay, tồn tại xã hội và ý thức xã hội đã thay đổi vượt bậc , song những tư tưởng triết học của Nho gia và Đạo gia vẫn có sức sống và tác động đáng kể đối với đời sống con người, đặc biệt ở những nước vốn chịu sự ảnh hưởng truyền thống của chúng . Nghiên cứu tư tưởng triết học Nho gia và Đao gia giúp chúng ta khám phá được sức mạnh tư tưởng của hai trường phái này và sức ảnh hưởng của chúng trong công cuộc hiện đại hóa, công nghê ̣hoá của các quốc gia đang phát triển rất nhanh trong vực như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… vốn chịu sự ảnh hưởng truyền thống của chúng.

1.7. Lời kết luận của bài tiểu luận triết học phương Tây

Bài tiểu luận “Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại này tới cận đại”. Trong Triết học phương Tây từ cổ đại tới cận đại nói riêng và Triết học phương Tây nói chung cũng như Triết học phương Đông, vấn đề con người, xã hội luôn nằm trong số các vấn đề thu hút sự tham gia nghiên cứu của các triết gia tiêu biểu qua các thời kỳ và giai đoạn. Tư tưởng của các triết gia về các vấn đề này phản ánh thực tiễn điều kiện, hoàn cảnh kinh tế xã hội tại các giai đoạn này.

Tuy còn có những hạn chế nhất định do các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nhất định quy định tại thời điểm đó cũng như những hạn chế trong phương pháp tiếp cận nhưng Triết học phương Tây từ cổ đại tới cận đại đã đánh dấu sự xuất hiện và phát triển những tư tưởng mới, tiến bộ về con người, xã hội, đặt nền móng cho sự phát triển nói chung của Triết học phương Tây. Những tư tưởng này sau này đã được Marx, Ph. Ănghen và Lênin phân tích sâu sắc, chỉ ra những mặt hạn chế, kế thừa những điểm mới, tiến bộ và phát triển một cách toàn diện các tư tưởng về con người và xã hội.

1.8. Lời kết luận của bài tiểu luận triết học về Lịch sử Triết học Hy Lạp cổ đại

Lời kết luận của bài tiểu luận triết học
Lời kết luận của bài tiểu luận triết học

Lịch sử triết học cổ đại Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đémocrite và đường lối Platon. Những nhà triết học duy vật cũng là những người vô thần mà đại diện là Đémocrite bảo vệ những quan điểm khoa học tự nhiên tiên tiến, đề ra hang lạt ý niệm khoa học, trong đó có học thuyết về cấu tạo nguyên tử của vật chất, phê phán mê tín và những tư tưởng thần học. Tuy chưa vạch ra hết nguồn gốc của thẩn học và tôn giáo nhưng những tư tưởng của họ đã góp phần to lớn vào cuộc đấu tranh chống tư tưởng hữu thần của các nhà triết học duy tâm.

Còn những nhà triết học duy tâm với đại diện tiêu biểu Platon, bằng cách này hay cách khác chống lại những quan điểm khoa học tự nhiên tiên tiến, căm thù chủ nghĩa vô thần, bảo vệ mê tín. Ăngghen đã đánh giá cao triết học Hi Lạp cổ đại và ông đã nhận định rằng, trong những hình thái muôn vẻ của triết học hi lạp đã có mầm mống của tất cả các loại thế giới quan sau này.

Nếu không có Hy Lạp và đế chế La Mã thì không có châu âu hiện đại. Triết học Hi-La cổ đại
đã đặt ra những vấn đề về triết học như bản thể luận , nhân sinh quan , chính trị -xã hội, những
mầm mống của thế giới quan sau này , mở ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm , góp phần thúc đẩy sự phát triển của triết học .

1.9. Lời kết luận của bài tiểu luận triết học phương Đông và triết học phương Tây

Lựa chọn vấn đề “Sự giống nhau và khác nhau giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây” làm đề
tài nghiên cứu trong bài tiểu luận của mình.

Ngày nay, các trào lưu triết học Phương Đông vẫn còn ảnh hưởng rất lớn trong xã hội Phương Đông hiện đại, đặc biệt là Nho giáo và Phật giáo. Các nhà tư tưởng đang tìm mọi cách để khai thác những yếu tố tích cực của triết học Phương Đông, để góp phần tạo nên nguồn lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Các trào lưu của triết học Phương Tây hiện đại ngày nay phản ánh sâu sắc những mâu thuẫn khách quan của xã hội tư bản hiện đại. Trong đó chủ nghĩa duy lý là động lực tạo nên nền văn minh hiện đại, còn chủ nghĩa phi duy lý lấy nhân tố con người để “tự cai trị” trong một xã hội ngày càng bị duy lí hoá đe doạ cuộc sống của con người. Hai xu hướng triết học đó lại được tăng cường bởi triết học tôn giáo. Chúng không hoàn toàn đối lập nhau một cách tuyệt đối mà dựa vào nhau, bổ sung cho nhau để đáp ứng sự tồn tại và phát triển của con người trong thế giới Phương Tây hiện đại. Nhưng trong thực tế, xã hội tư bản hiện đại đã sản sinh ra những cá nhân vị kỷ, tình trạng bạo lực… đe doạ sự bất ổn trong xã hội. Và hiện nay, các nhà tư tưởng Phương Tây đang quay về nghiên cứu Phương Đông để học tập cái hay, cái đẹp của Phương Đông, đúng như dự đoán của sử gia người Pháp Y.Michelet: “Người nào đã từng hành động hoặc ham muốn quá nhiều, hãy uống cạn ly rượu đầy sức sống và tươi trẻ này. Ở Phương Tây cái gì cũng chật hẹp. Hy Lạp nhỏ bé làm cho tôi ngột ngạt. Xứ Do Thái khô khan làm cho tôi khó thở. Hãy để cho tôi hướng về Châu Á cao cả và Phương Đông thâm trầm trong giây lát”.

Là những chủ nhân của đất nước, chúng ta phải có nhiệm vụ nghiên cứu những giá trị của triết học Phương Đông và Phương Tây, đặc biệt là triết học Phương Đông. Bởi lẽ chính lịch sử tư tưởng Việt Nam ảnh hưởng khá
sâu sắc những học thuyết triết học Phương Đông như Nho giáo, Phật giáo, Đạo gia. Những học thuyết đó trong lịch sử đã bị “Việt Nam hoá” và là những thành tố tạo nên bề dày của bản sắc văn hoá Việt Nam. Để từ đó phát huy nội lực, phát huy những giá trị truyền thống trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.

1.10. Lời kết luận của bài tiểu luận triết học cao học về lượng và chất

“Phân tích nội dung qui luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Việc nhận thức và vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn của anh chị vào trong hoạt động thực tiễn”.

Lời kết luận của bài tiểu luận triết học
Lời kết luận của bài tiểu luận triết học

Như vậy, lượng và chất là hai mặt thống nhất biện chứng của sự vật, chỉ khi nào lượng được tích luỹ tới một độ nhất định mới làm thay đổi về chất, nên trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn cũng như trong nhận thực khoa học phải chú ý tích luỹ dần dần những thay đổi về lượng, đồng thời phải biết thực hiện và thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi. Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH chính là bước nhảy dần dần từ
chất cũ sang chất mới. Trong quá trình tiến hoá cách mạng, một mặt phải chống khuynh hướng bảo thủ, trị trệ, nhằm tạo ra những bước nhảy để đẩy nhanh sự phát triển, mặt khác, lại phải chống tư tưởng nóng vội, muốn đưa nhanh sự phát triển, tiến hành những bước nhảy khi chưa có điều kiện chín muồi, bất chấp những quy luật khách quan.

Xem thêm các bài viết khác cùng chủ đề:

Luận Văn Online hy vọng rằng bài viết này đã giúp bạn giải đáp một phần những băn khoăn về việc tìm một dịch vụ uy tín để viết tiểu luận thuê.

Nếu bạn cần tư vấn hoặc giải đáp thắc mắc về dịch vụ thuê viết tiểu luận.
Hãy liên hệ trực tiếp với nhân viên tư vấn qua hotline: 0972.003.239 – email: edu.luanvanonline@gmail.com. Hoặc để lại thông tin liên lạc của bạn qua trang web:https://luanvanonline.com/.